Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở Việt Nam đang trở thành mục tiêu lớn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần có lộ trình rõ ràng, chính sách đồng bộ, và sự đồng thuận từ mọi cấp độ giáo dục đến xã hội.
1. Thực Trạng Và Những Thách Thức
Chênh Lệch Về Trình Độ Giáo Viên Và Học Sinh
- Theo TS Lê Đức Thuận, việc giảng dạy tiếng Anh tại các trường học hiện gặp phải hai vấn đề lớn:
- Đội ngũ giáo viên thiếu hụt cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt ở các vùng khó khăn.
- Học sinh chủ yếu học để thi, thiếu động lực học tiếng Anh để giao tiếp thực tế.
- Trong 4 kỹ năng, học sinh thường yếu về nghe và nói, do thiếu môi trường thực hành và phương pháp giảng dạy phù hợp.
Khoảng Cách Kỹ Năng
- BUV (Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam) ghi nhận rằng nhiều sinh viên có trình độ IELTS 6.5 nhưng kỹ năng nghe và nói chỉ đạt mức 3.5.
- TS Đàm Quang Minh cho rằng Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ phát triển trình độ tiếng Anh để cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực như Singapore hay Malaysia.
2. Những Điều Kiện Cần Và Đủ
Hoàn Thiện Hành Lang Pháp Lý
- GS.TS Trần Văn Nhung đề xuất, cần có chỉ thị quốc gia về việc phát triển tiếng Anh như Chỉ thị 58/CT-TW về ứng dụng công nghệ thông tin.
- Bà Nguyễn Thị Mai Hoa nhấn mạnh, Luật Giáo dục cần quy định rõ ràng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Các chính sách này phải được cụ thể hóa bằng các đề án rõ ràng và có tính thực tiễn cao.
Đầu Tư Vào Đội Ngũ Giáo Viên
- Theo bà Hoa, cần tập trung đào tạo giáo viên dạy song ngữ cho các môn học Khoa học Tự nhiên và Xã hội.
- Các trường đại học không chỉ đào tạo giáo viên ngoại ngữ mà còn phải mở rộng đào tạo chuyên ngành như Toán, Lý, Hóa bằng tiếng Anh.
Đầu Tư Cơ Sở Vật Chất
- Việc dạy học tiếng Anh không thể chỉ dựa vào sách vở mà cần môi trường học tập hiện đại:
- Phòng học bộ môn, thiết bị công nghệ hỗ trợ.
- Ứng dụng công nghệ vào giảng dạy, như phần mềm học trực tuyến và công cụ AI.
3. Chiến Lược Và Lộ Trình
Thí Điểm Trước, Nhân Rộng Sau
- GS.TS Trần Văn Nhung khuyến nghị, nên triển khai thí điểm dạy các môn Khoa học Tự nhiên bằng tiếng Anh tại các trường trọng điểm ở Hà Nội và TP.HCM. Sau đó nhân rộng ra các khu vực khác.
- Phương châm “mũi tên, hòn đạn” cần được áp dụng, tức là phải có nhóm tiên phong đi trước để thử nghiệm và tạo ra các mô hình thành công.
Học Hỏi Kinh Nghiệm Quốc Tế
- PGS.TS Hà Lê Kim Anh chỉ ra, các quốc gia như Singapore, Malaysia, Philippines đã thành công trong việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai nhờ:
- Chính sách rõ ràng, ưu tiên giáo dục song ngữ.
- Tạo động lực học tiếng Anh bằng cách tích hợp vào hệ thống chính quyền và các hoạt động kinh tế – xã hội.
Phát Triển Đồng Bộ Vùng Khó Khăn
- GS.TS Trần Văn Nhung nhấn mạnh, thành bại của chiến lược phụ thuộc vào việc triển khai ở các vùng khó khăn. Cần có chính sách hỗ trợ đặc biệt, bao gồm:
- Cung cấp giáo viên giỏi và cơ sở vật chất cho vùng sâu, vùng xa.
- Khuyến khích xã hội hóa giáo dục ở những nơi có điều kiện.
4. Lợi Ích Của Việc Đưa Tiếng Anh Là Ngôn Ngữ Thứ Hai
- Kết nối quốc tế: Giúp học sinh tham gia vào các chương trình giao lưu, hội nhập kinh tế và văn hóa.
- Phát triển kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường lao động toàn cầu.
- Thúc đẩy sáng tạo: Tiếp cận các tài liệu khoa học và công nghệ tiên tiến được viết bằng tiếng Anh.
- Xây dựng công dân toàn cầu: Giúp thế hệ trẻ tự tin hơn khi làm việc và học tập ở các môi trường quốc tế.
Kết Luận
Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học là một bước đi cần thiết để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện thành công, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược dài hạn, đầu tư bài bản vào đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất và thí điểm mô hình ở các khu vực trọng điểm.
“Đây không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để Việt Nam bứt phá và tiến gần hơn đến chuẩn mực giáo dục quốc tế,” GS.TS Trần Văn Nhung khẳng định.